DI CHÚC CHUNG VỢ CHỒNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ PHÁT SINH
Quan hệ vợ
chồng là một quan hệ hết sức đặc biệt được gắn kết bằng một chất liệu mà pháp
luật đôi khi cũng chưa thể can thiệp, đó là tình cảm gắn bó vợ chồng , Vì vậy, Tài
sản chung của vợ chồng hình thái tài sản vô cùng đặc biệt cho nên các vấn đề
pháp lý phát sinh từ đây cũng vô cùng phong phú. Một trong số đó là vấn đề di
chúc chung của vợ chồng. Tài sản chung vợ chồng là một khối tài sản chung hợp
nhất, cho nên tài sản chung của vợ chồng nên thường xuyên trở thành đối tượng
của di chúc chung nhằm thể hiện sự đồng thuận trong tình cảm vợ chồng theo truyền
thống của con người Việt Nam.
Theo tiến
trình phát triển lịch sử lập pháp Việt Nam, di chúc chung vợ chồng đã được thừa
nhận chính thức kể từ năm 1981 bởi TANDTC bằng Thông tư 81/TANDTC, tiếp đến là
Pháp Lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự (BLDS)1995, Bộ luật dân sự 2005 vẫn
tiếp tục kế thừa quy định này.
Di chúc
chung vợ chồng có những đặc trưng có thể kể đến như:
-
Do hai ý chí cá
nhân cùng tham gia định đoạt dựa trên mối quan hệ hôn nhân;
-
Dùng để định đoạt
khối tài sản chung của vợ chồng;
-
Có hiệu lực không
đồng thời với thời điểm mở thừa kế của bên chết trước.
Việc thừa
nhận di chúc chung vợ chồng xuất phát từ tính ưu việt của nó trong việc duy trì
tính thống nhất trong khối tài sản chung, thông qua quy định về thời điểm có
hiệu lực của di chúc bắt đầu kể từ khi “bên sau cùng chết hoặc tại thời điểm
hai vợ chồng cùng chết”. Theo đó, trong thời gian này, người còn sống được bảo
vệ khá tốt trong khối tài sản chung cho đến khi họ qua đời, tránh tình trạng
cuộc sống của người còn lại bị gián đoạn.
Tuy nhiên,
trong quá trình thực thi pháp luật, vấn đề di chúc chung vợ chồng lại phát sinh
nhiều bất cập. Có thể kể đến như thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ
chồng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người còn sống, như trong
trường hợp người còn sống gặp khó khăn, bệnh tật nhưng họ không thể chuyển
nhượng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng. Thêm vào
đó, thực tiễn đã có những câu hỏi xoay quanh trường hợp trong thời gian người
vợ/chồng còn sống đã sử dụng di sản chưa phân chia vào sản xuất kinh doanh, thu
được những lợi nhuận thì lợi nhuận phát sinh này được xem là di sản thừa kế hay
thuộc quyền sở hữu của người vợ/chồng còn sống đó? Không những vậy, quy định về
di chúc chung vợ chồng còn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế
của bên chết trước vì họ cũng phải chờ đến thời điểm di chúc chung có hiệu lực
thì mới được phân chia di sản. Hơn nữa, điều này thực tế còn ảnh hưởng khá nặng
nề đến lợi ích của các chủ nợ, đặc biệt là các ngân hàng; bởi lẽ, theo quy
định, các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được
thanh toán trước khi chia di sản theo những thứ tự ưu tiên.
Vấn đề được
đặt ra là, người chồng/vợ chết trước có nghĩa vụ về tài sản với người khác do
có hành vi gây thiệt hại, do vay tài sản… thì quyền tài sản của các chủ nợ đó
được giải quyết như thế nào, khi mà những người thừa kế chưa được hưởng di sản?
Người chồng/vợ còn sống có nghĩa vụ thanh toán cho các chủ nợ từ tài sản của
người chết để lại với tư cách là người thừa kế hay là người được uỷ nhiệm, pháp
luật thời bấy giờ vẫn không quy định cụ thể. Bên cạnh đó, việc tồn tại di chúc
chung vợ chồng còn phát sinh nhiều vướng mắc trong quy định về thời hiệu thừa
kế, khi trong một số trường hợp, khi người còn lại chết thì thời hiệu khởi kiện
đối với di sản của người chết trước cũng đã hết.
Giải
quyết thế nào khi BLDS 2015 bỏ quy định về di chúc chung của vợ chồng?
Xuất phát
từ những bất cập vừa điểm qua, nhà lập pháp Việt Nam đã bãi bỏ quy định về di
chúc chung vợ chồng trong BLDS 2015. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không đồng
thời cấm việc lập di chúc chung vợ chồng.
Thực tế tại
các văn phòng công chứng vẫn tiếp nhận các trường hợp vợ chồng có mong muốn lập
di chúc chung cùng với nhau để định đoạt những tài sản lớn, mang ý nghĩa tinh
thần nhiều hơn là vật chất. Chính vì bãi bỏ quy định về di chúc chung vợ chồng
của BLDS 2015 khiến cho các công chứng viên lúng túng, hình thành hai luồng
quan điểm trái ngược giữa “pháp luật hiện hành không thừa nhận di chúc chung vợ
chồng” và “pháp luật không cấm đồng nghĩa với việc vẫn chấp nhận giá trị của di
chúc chung vợ chồng”. Bên cạnh đó, một cách khôn khéo, nhiều cặp vợ chồng đã
lập những di chúc riêng nhưng tự nguyện ràng buộc nhau bằng quy định “Trường
hợp theo ý chí của người lập di chúc, di sản chỉ được phân chia sau một thời
hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia” (Điều
661 BLDS 2015). Như vậy, việc lập di chúc chung của vợ chồng có thể gián tiếp
thực hiện, cụ thể được áp dụng theo cơ chế đồng sở hữu và theo ý chí của người
lập di chúc có thể xác định thời hạn của chia di sản là sau khi đồng chủ sở hữu
cuối cùng chết hoặc tại thời điểm tất cả đồng chủ sở hữu cùng chết.
Câu hỏi
được đặt ra tại thời điểm này là: Di chúc chung vợ chồng được lập sau thời điểm
BLDS 2015 có hiệu lực thì có được pháp luật ghi nhận hay không? Hay nói một
cách khác là, nếu không có quy định cấm lập di chúc chung một cách minh thị thì
liệu có được hiểu là không cho phép vợ chồng lập di chúc chung để định đoạt tài
sản chung hay không?
Trước hết,
đi từ bản chất vấn đề, di chúc được định nghĩa “là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” (Điều 624 BLDS
2015); ngoài ra, di chúc còn được ghi nhận là một dạng giao dịch dân sự, trên
cơ sở Điều 116 BLDS 2015, “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Một
cách hợp lý, những điều luật trên chỉ thể hiện di chúc là “ý chí của cá nhân”
chứ không bắt buộc là “ý chí của một cá nhân” nên hoàn toàn có thể hiểu vợ
chồng được lập di chúc chung. Nói cách khác, hoàn toàn không đủ cơ sở để cho
rằng pháp luật hiện hành cấm lập di chúc chung của vợ chồng.
Di chúc
chung vợ chồng rõ ràng đã rơi vào vùng chưa có điều luật quy định cụ thể của
pháp luật dân sự hiện hành. Do đó, hướng xử lý vấn đề sẽ được tiến hành theo
tinh thần của BLDS 2015: Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy
định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật
thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng
(Điều 6 BLDS 2015).
Để được tư vấn cụ thể,
chi tiết: bạn vui lòng liên hệ: Văn phòng Luật sư Phúc Tín Tâm, số nhà 93, đường
Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Điện thoại 0904.928.456 –
0915.827.090
Tin Liên Quan
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Tuy vậy, không phải mọi di chúc đều có hiệu lực.
Xem thêm
Nếu việc thừa kế mở trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực thì có những vụ áp dụng Pháp lệnh thừa kế, nếu các giao dịch đó có nội dung và hình thức khác với qui định của Bộ luật Dân sự
Xem thêm
Tư vấn giải quyết tranh chấp liên quan đến di chúc hoặc theo pháp luật liên quan đến di sản thừa kế là tài sản có tính đặc thù liên quan đến sự điều chỉnh của những lĩnh vực pháp luật liên quan khác
Xem thêm